Cá hú (danh pháp hai phần: Pangasius conchophilus Roberts & Vidthayanon, 1991) là một loài cá nước ngọt, thuộc họ Cá tra (Pangasiidae) trong bộ Cá da trơn (Siluriformes), đây là một dạng cá sát bụng và là một trong một trong những loài cá nuôi kinh tế quan trọng của Việt Nam ở vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Cá hú được nuôi chủ yếu trong bè và có sản lượng khá cao, cá nuôi lớn nhanh, thịt ngon, béo và được người tiêu dùng ưa chuộng.
Cá hú là loài cá da trơn (không vảy), thân trần, hình thoi, thon dài, hơi dẹp bên. Bụng thon, lườn bụng tròn. Mặt lưng của thân và đầu màu xám đen, bụng trắng xám (giống màu trắng sữa), nhìn xa thì thấy cá hú có màu xanh sẫm. Cuống đuôi thon, ngắn.
Các vây màu trắng trong, vây lưng đen nhạt, các tia vây lưng, vây hậu môn và vây bụng đều không kéo dài, chiều cao vây lưng ngắn hơn chiều dài đầu. Vây lưng và vây ngực có gai cứng. Lược mang trên cung mang thứ nhất có một hàng, dạng que ngắn (số lượng dao động trong khoảng 14 – 18 cái), xếp thưa nhau. Bóng hơi kín, nằm trong xoang bụng, có hai thuỳ: thuỳ trước to, thuỳ sau nhỏ.
Ðầu cá hú to và có hình nón, dẹp bên. Phần trán giữa hai mắt rộng và cong lồi. Mắt tương đối nhỏ, hình bầu dục. Nằm lệch về phía dưới của đầu và trên góc miệng. Mõm nhọn, miệng dưới hơi rộng, hình vòng cung và không co duỗi, hàm trên nhô ra.
Răng hàm nhỏ, mịn. Răng vòm miệng có ba đám: một đám răng lá mía nằm ở giữa hình chữ nhật với bốn gốc bầu (chiều rộng phải – trái tương đương hai lần chiều dài trước sau), hai đám răng khẩu cái nằm ở hai bên đám răng lá mía. Đôi râu mép kéo dài qua gốc vây ngực, đôi râu hàm kéo dài đến gốc vây ngực (có hai đôi râu, râu hàm trên dài đến gốc vây ngực, râu hàm dưới ngắn hơn).
Do cá hú có giá trị dinh dưỡng cao, chất lượng thịt tốt và béo và không quá nhiều xương do vậy trong việc nội trợ dễ dàng chế biến. Ở Việt Nam mà đặc biệt là miền nam bộ, cá hú được chế biến thành những món ăn hấp dẫn như: Cá hú nấu canh chua, cá hú kho tiêu xanh, cá hú nấu măng chua, cá hú xốt tương.
Có thể tham khảo thêm link bên dưới: