Rễ cây ngưu bàng là một cây sống hằng năm hay 2 năm, cao chừng từ 1-1,5m. Phía trên phân nhiều cành. Lá mọc thành hoa thị ở gốc và mọc so le ở trên thân. Lá to rông. Hình tim, đương kính tới 40-50cm, cuống lá dài, mặt dưới lá mang nhiều lông trắng. Hoa tự hình đầu, mọc ở đầu cành, đường kính 2-4cm, cánh hoa màu hơi tím. Quả bé màu xám nâu hơi cong. Mùa hoa tháng 6-7, mùa quả tháng 7-8.
Sau khi gieo 18 tháng, thu hoạch rễ vào mùa xuân, đào rễ về, rửa sạch, thái thành từng miếng dài 2cm, phơi hay sáy cho thật khô, mới khỏi mốc hỏng.
Cây ngưu bàng mới di thực từ Trung Quốc sang nước ta mấy năm nay (1959). Ngay tại Trung Quốc, nguồn cung cấp chủ yếu cũng do trồng mà có ít thu nhập ở những cây mọc hoang. Trong dợt điều tra dược liệu Lào Cai ( Hoàng Liên Sơn) 7-1967, đoàn điều tra đã thấy ở vùng cao nguyên Bát Xát có cây ngưu bàng mọc hoang.
Trong rễ ngưu bàng có tới 57% inulin ( có khi tới 70% ), 5-6% glucoza, một ít chất béo (0,4%), chất nhầy, chất đắng, nhựa và muối kali (nitrat và cacbonat). Trong lá có men oxydara rất mạnh.
Dùng cho người bị đường tiện (đái ra đường) vì người ta cho răng cao rễ ngưu bàng có tác dụng giảm đường glucoza trong máu.
Theo Tây y, rễ ngưu bàng có tác dụng lợi tiểu, ra mồ hôi, thường dùng chữa tê thấp, sưng đau khớp và một số bệnh ngoài da.