Cá xủ hay cá sủ (cá sử đất) là loài cá thuộc lớp cá xương Osteichthyes, họ cá đù (Sciaenides), sống gần bờ và trên các vùng đáy bùn, đến độ sâu 60 m nước. Trên thế giới, cá sủ đất phân bố chủ yếu ở Ấn Độ Dương và bờ biển phía Tây của Thái Bình Dương (từ cực Bắc tới biển Nhật Bản và từ cực Nam tới phía bắc của Australia).
Cá hình thon dài, hơi dẹt bên, chiều dài thân gấp 3,9 - 4,2 lần chiều cao. Màu thân từ đen trên lưng đến hơi sáng ở bụng và vây đuôi màu tối. Khoảng cách giữa mắt và đầu không có vẩy, bộ phận đầu trừ mõm, xương trước mắt và xương dưới mắt ra đều có vẩy. Mắt trung bình, miệng rộng ở phía trước, hơi thấp và hơi lệch phía dưới, môi mỏng, có thể co duỗi được.

Là loài cá nhiệt đới và cận ôn đới, cá sủ đất sống ở điều kiện thích hợp (nhiệt độ 20 - 280C, độ mặn 15 - 30‰ và ôxy hòa tan 4 - 9 mg/l). Sủ đất là loại cá ăn tạp thiên về động vật, tính ăn thay đổi theo các giai đoạn phát triển. Khi nhỏ, cá ăn luân trùng, nguyên sinh động vật, ấu trùng hàu, hà, copepoda và artemia. Cá cỡ 3 cm trở lên chuyển sang ăn các loại tôm, cá nhỏ, các loại thịt nhuyễn thể. Giai đoạn cá giống lớn và nuôi thương phẩm, cá ăn thức ăn công nghiệp hoặc tự chế biến. Sủ đất có tốc độ sinh trưởng nhanh, sau một năm đạt cỡ 2 - 2,5 kg/con và có thể đạt 4 - 8 kg sau hai năm. Ương cá bột lên giống, sau 50 - 55 ngày tuổi đạt cỡ 4 - 5 cm.
Cá sủ vàng, có tên khoa học là Otolithoides biauritus (còn được gọi là cá sủ vây vàng, cá sủ vàng kép, cá thủ sủ đất; có nơi gọi là cá sú vàng) là một loài cá biển quý hiếm được ví von như "cục vàng biển".
Tuy giá thành cao nhưng các món ăn từ cá sủ lại được chế biến rất dân dã. Cá sủ chế biến nướng hoặc phơi làm khô.
Cá tươi thì bảo quản ngăn đông tủ lạnh còn cá khô thì bảo quản kín nơi khô mát.