Củ mài hay còn gọi là Hoài sơn, Sơn dược, thuộc họ Củ nâu. Đặc điểm: dây leo quấn, thân nhẵn, hơi có góc cạnh, màu đỏ hồng, thường mang những củ nhỏ ở nách lá (dái mài). Rễ củ đơn độc hoặc từng đôi, ăn sâu vào đất đến hàng mét, hơi phình ở phía gốc, vỏ ngoài có màu nâu xám, thịt mềm màu trắng. Lá mọc so le hay mọc đối, hình tim, đôi khi hình mũi tên, không lông, dài 10cm, rộng 8cm, nhẵn, chóp nhọn, có 5-7 gân gốc. Cụm hoa đơn tính gồm các bông khúc khuỷu, dài 40cm, mang 20-40 hoa nhỏ màu vàng, hoa đực có 6 nhị. Quả nang có 3 cánh rộng 2cm. Hạt có cánh mào.
Cây mọc hoang phổ biến ở miền Bắc và miền Trung của nước ta cho tới Huế. Còn phân bố ở Trung Quốc, Lào và Campuchia. Cũng được trồng nhiều ở đồng bằng để đáp ứng nhu cầu lớn về dược liệu, có thể trồng bằng gốc rễ hoặc dái mài về mùa xuân.
Củ mài chứa tinh bột 63,25%, protid 6,75% và glucid 0,45%. Còn có mucin là một protein nhớt, và một số chất khác như allantoin, cholin, arginin, men maltose, saponin có nhân sterol.
- Theo Đông y, củ mài vị cam bình, vào phế tỳ thận, có tác dụng kiện tỳ ích khí, bổ phế cố thận, ích tinh sáp niệu. Dùng cho các chứng tỳ hư, phế hư, thận hư với các triệu chứng ăn kém, chậm tiêu, tiêu chảy, gầy còm mỏi mệt, ho lâu ngày, di tinh liệt dương, tiểu dắt tiểu ít, đới hạ (huyết trắng), đái tháo đường...
- Rễ củ mài được chế biến làm thuốc. Trong rễ củ có tinh bột, chất nhầy, glucose, protein, acid amin, saponin, cholin, sinh tố C... có tác dụng chống lão suy (chống di niệu, ngừa bạc tóc sớm, bổ thận, bổ tỳ), làm giảm đường huyết và tăng lực.
Nhân dân vùng núi thường đào củ mài về cạo sạch vỏ, luộc, xào hoặc nấu canh ăn, có thể dùng để ăn như các loại khoai.
Tham khảo: