Ngải cứu còn có tên thuốc cứu, ngải diệp, nhả ngải (tiếng Tày), quá sú (H'mông), cỏ linh li (Thái), danh pháp hai phần: Artemisia vulgaris, là một loài thực vật thuộc họ Cúc (Asteraceae).
Lá ngải cứu chứa tinh dầu, các flavonoid, các acid amin, như adenin, cholin.
Ngải cứu có vị đắng, mùi thơm, tính ấm, được sử dụng lâu đời trong dân gian và trong Đông y để:
- Cầm máu: phụ nữ kinh nguyệt không đều, có thai ra huyết, thổ huyết, chảy máu cam, đái ra máu.
- Giảm đau nhức.
- Sát trùng, kháng khuẩn: ghẻ lở, trị viêm da, dị ứng, viêm gan, trừ giun nhờ tinh dầu có tính kháng khuẩn cao.
- Điều hòa khí huyết, đau kinh, ôn kinh, an thai.
- Đau bụng do lạnh, nôn mửa, kiết lỵ.
- Bạch đới, phong thấp, hàn thấp.
- Lợi tiểu.
- Ngải cứu có hoạt chất diệt và đuổi côn trùng.
Dùng ngải cứu quá liều là làm cho thần kinh trung ương bị hưng phấn quá mức, dẫn tới chân tay run giật, sau đó cục bộ hoặc toàn thân co giật; Sau vài lần có thể dẫn đến kinh quyết (co cứng), nói sàm, thậm chí tê liệt.
Lá ngải cứu được sử dụng cho món canh, trứng chiên, gà hầm… Ngoài ra ngải cứu còn dùng massage toàn thân làm đẹp.
Bài thuốc: Lá ngải sao cháy hoặc lấy lá ngải cứu tươi giã nát, thêm 1/3 muỗng cà phê muối đắp lên vết thương, cầm máu nhanh.
Tham khảo thêm các link bên dưới: