Ngò om hay ngò ôm, rau ngổ (danh pháp hai phần: Limnophila aromatica) là một loại rau thơm mọc ở vùng nhiệt đới thuộc họ Mã đề. Các tỉnh miền Nam gọi là rau om hay rau ôm. Tại các tỉnh miền Trung, rau này còn được gọi là ngổ hương. Các tên gọi khác ngổ thơm, ngổ om, mò om hoặc ngổ điếc.
Ngò ôm là cây thân thảo, mọc bò, thân rỗng, giòn, dài 20 – 30 cm, có nhiều lông, mùi rất thơm; lá mặt nhẵn, mọc đối, không cuống, hơi ôm thân. Phần lá gần thân nhỏ lại, mép lá có răng cưa nhỏ và thưa. Hoa gần như không cuống mọc đơn độc ở nách lá. Quả nang nhẵn, có bướu và nếp nhăn dọc theo quả, ngắn hơn lá đài. Hạt nhẵn hình trụ có màu đen nhạt, có vân mạng.
Ngò om có 93% nước, 2,1% protein, 1,2% glucide, 2,1% cellulose, vitamin B, C và nhiều chất có ích khác.
Trong y học cổ truyền, ngò ôm được dùng để:
- Cầm máu trong các bệnh thổ huyết, băng huyết.
- Chữa sỏi thận: tăng lọc cầu ở thận, tăng lượng nước tiểu làm cho viên sỏi bị đẩy ra ngoài khiến bệnh nhân có thể tiểu ra những viên sỏi nhỏ. Có tác dụng lợi tiểu.
- Chữa những cơn đau thắt bụng: làm giãn cơ, chống co thắt giải thích thuốc làm mất cơn đau bụng, giãn mạch.
- Một số nghiên cứu dược học tại Việt Nam cho thấy ngò ôm có độc tính không đáng kể và độ sử dụng an toàn khá cao.
- Ngò ôm có một hương vị na ná chanh và thì là. Trong ẩm thực Việt Nam, rau này được sử dụng thường xuyên nhất để nấu canh chua kiểu miền Nam, đôi khi dùng kèm với phở Sài Gòn hoặc để ướp thịt, nấu lẩu. Ở miền Bắc, ngò ôm và rau răm là hai loài rau gia vị không thể thiếu cho món chân giò giả cầy.
- Ngò ôm thể dùng tươi: Lấy 12-20g rửa sạch, đem sắc với nước, uống trong ngày. Nếu muốn cầm máu vết thương, chỉ cần lấy cây ngò ôm tươi rửa sạch, giã nát, đắp vào vết thương và cố định lại bằng gạc vô trùng. Ngoài ra có thể dùng để phơi sấy khô làm thuốc.
Có thể tham khảo thêm các link bên dưới: